Tôi rất tiếc, nhưng tôi không thể cung cấp nội dung chính xác bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, tôi có thể giúp tóm tắt hoặc diễn giải lại thông tin. Bạn có muốn tôi giúp với điều gì khác không?
Theo số liệu từ Bộ Lao động, số lượng lao động di cư tại Việt Nam tính đến cuối tháng 9 năm nay đạt 805.976 người. Trong số đó, lao động di cư trong ngành công nghiệp, bao gồm sản xuất, xây dựng và nông lâm ngư nghiệp, chiếm tổng cộng 559.937 người. Trong khi đó, số lao động di cư trong lĩnh vực phúc lợi xã hội là 240.039 người.
Được biết, tại Đài Loan hiện nay có hơn 800.000 lao động nhập cư, phần lớn đến từ Thái Lan, Indonesia, Việt Nam và Philippines. Trong đó, lao động người Indonesia chiếm số lượng đông nhất với 296.756 người, tiếp theo là lao động người Việt Nam với 278.624 người. Đứng thứ ba là lao động từ Philippines với 157.916 người và cuối cùng là Thái Lan với 72.678 người.
Dưới góc nhìn phân loại theo ngành nghề, trong ngành công nghiệp, có 503.717 người làm việc trong ngành sản xuất, bao gồm sản xuất sản phẩm kim loại, sản xuất thực phẩm và thức ăn chăn nuôi, sản xuất thiết bị máy móc, v.v. Tiếp theo là ngành xây dựng với 31.962 người và ngành nông lâm ngư nghiệp có 21.347 người.
Là một phóng viên địa phương tại Việt Nam, tôi xin tóm tắt thông tin này như sau:
Theo số liệu mới nhất, số lượng lao động di trú trong lĩnh vực phúc lợi xã hội bao gồm 224.725 người làm công việc điều dưỡng gia đình. Tiếp theo là 19.143 người làm công việc điều dưỡng tại các cơ sở dưỡng lão, và 2.171 người làm giúp việc gia đình.
Dưới đây là bản tin được viết lại bằng tiếng Việt, đóng vai trò như một phóng viên địa phương tại Việt Nam:
Theo thống kê từ Bộ Lao động, vào tháng 9 năm 2014, số lượng lao động di cư là 534.081 người và tiếp tục gia tăng trong những năm sau đó. Đến năm 2019, con số này dao động ở mức 700.000 người và đạt đỉnh vào tháng 2 năm 2020 với 719.487 người. Tuy nhiên, sau đó do tác động của các biện pháp kiểm soát biên giới mà Đài Loan áp dụng nhằm ngăn chặn dịch bệnh COVID-19, sự di chuyển lao động xuyên biên giới đã bị ảnh hưởng đáng kể.
Theo số liệu thống kê, số lượng lao động di cư đã từng giảm xuống dưới 700.000 người, chỉ còn 660.000 người. Bộ Lao động nhận định nguyên nhân chính của việc giảm số lượng lao động là do số lao động xuất cảnh nhiều hơn số lao động nhập cảnh. Tại thời điểm đó, để giữ chân lao động di cư ở lại Đài Loan, chính phủ đã gửi công văn cho phép các chủ lao động nộp đơn xin gia hạn giấy phép tuyển dụng cho những lao động sắp hết hạn làm việc tại Đài Loan.
Tính đến cùng kỳ, tổng số lao động di trú đã tăng thêm 270.000 người trong 10 năm qua, trong đó ngành sản xuất có mức tăng rõ rệt nhất, tăng thêm 200.000 người. Tiếp theo là lao động gia đình với 29.724 người và ngành xây dựng với 28.975 người.
Số lượng lao động nhập cư trong nước tiếp tục gia tăng, điều này cho thấy nhu cầu nhân lực trong các ngành công nghiệp trong nước đang cao. Dữ liệu cũng cho thấy ngành sản xuất đang phụ thuộc khá nhiều vào lao động nhập cư. Ông Hsin Ping-lung, Phó Giáo sư kiêm nhiệm tại Viện Quốc gia Đại học Đài Loan, chỉ ra rằng lao động nhập cư đã trở thành một nguồn bổ sung nhân lực thường xuyên. Chỉ có thể từ phía nhu cầu của ngành công nghiệp mà thực hiện việc hạn chế, mới có thể kìm hãm sự gia tăng số lượng lao động nhập cư.
Với tư cách là một phóng viên địa phương tại Việt Nam, bạn có thể viết lại bản tin như sau:
Số lượng lao động nhập cư tại quốc gia này tiếp tục tăng mạnh, cho thấy nhu cầu về lao động trong các ngành công nghiệp nội địa đang rất cao. Dữ liệu cũng chỉ rõ rằng các ngành công nghiệp sản xuất đang rất dựa vào lực lượng lao động nhập cư. Tiến sĩ Hsin Ping-lung, Phó Giáo sư của Viện Phát triển Quốc gia, Đại học Quốc gia Đài Loan, đã nhấn mạnh rằng lao động nhập cư đã trở thành một phương tiện bổ sung nhân lực thường xuyên. Ông lập luận rằng chỉ khi giảm nhu cầu từ phía doanh nghiệp thì mới có thể kiểm soát sự gia tăng của số lượng lao động nhập cư.
Là một phóng viên địa phương tại Việt Nam, bạn có thể viết lại tin tức này như sau:
“Chính sách lao động nhập cư vốn đã là một nhiệm vụ đầy thử thách. Ông Tân Bỉnh Long nhấn mạnh rằng, chính phủ nên tìm cách sử dụng chính sách lao động nhập cư để cân bằng và thúc đẩy các ngành công nghiệp tìm giải pháp tự động hóa trong quá trình sản xuất và dịch vụ nhằm giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động.”
Ông Tân Bính Long cho biết, nguồn cung lao động trong nước đang thiếu hụt, dù có khai thác lực lượng lao động cao tuổi cũng không thể đáp ứng nhu cầu hiện tại. Do đó, rất khó để kiềm chế nhu cầu của các ngành công nghiệp đối với lao động di cư. Trong bối cảnh các ngành công nghiệp hiện tại cần duy trì quy mô hiện có và phát triển, trong tương lai, số lượng lao động di cư sẽ ngày càng gia tăng.
Theo lời của chuyên gia Tân Bính Long, tình trạng thiếu hụt nhân lực sẽ gây áp lực cho ngành công nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải suy nghĩ về việc tăng cường tự động hóa để giải quyết vấn đề này. Chính phủ cần điều chỉnh chính sách lao động nhập cư một cách hợp lý, không nên chỉ đáp ứng mọi yêu cầu của ngành công nghiệp mà không thúc đẩy họ chuyển đổi, đổi mới. Khi ngành công nghiệp thiếu nhân lực, nếu chỉ nghĩ đến việc nhập khẩu lao động mà không sẵn sàng thay đổi thì sẽ không bền vững. (Biên tập: Lý Tích Chương) 1131026.