Tiêu đề: Báo cáo mới phơi bày nghi vấn lao động cưỡng bức trong chuỗi cung ứng toàn cầu của các công ty Đài Loan
Nội dung bài viết:
Mới đây, nhà báo Peter Bengtsen đã tập trung vào vấn đề nhân quyền và lao động trong chuỗi cung ứng toàn cầu và công bố một báo cáo vào tháng 10 năm 2023, tiết lộ rằng các công ty Đài Loan hoạt động trong lĩnh vực vệ tinh, điện tử và ô tô có liên quan đến cáo buộc về “lao động cưỡng bức”.
Trong bài báo được đăng ngày 2, Bengtsen đã khẳng định rằng ông đã tiếp cận và yêu cầu phản hồi từ tất cả các công ty và cơ quan chính phủ liên quan được nhắc đến trong bài viết. Ngoài ra, ông cũng đã phỏng vấn khoảng 12 công nhân di cư làm việc tại các dự án cảng hàng không và tập đoàn Gigant Group để hiểu rõ hơn về tình hình của họ. Do lý do an ninh, danh tính của những người lao động này không được công khai.
Các cáo buộc lao động cưỡng bức nếu được chứng minh là sẽ làm dấy lên mối lo ngại sâu rộng về chuỗi cung ứng của các công ty Đài Loan và có thể gây tác động tiêu cực đến hình ảnh của những công ty này trên trường quốc tế. Động thái này cũng thúc đẩy cộng đồng quốc tế phải xem xét lại cam kết của họ đối với việc duy trì các tiêu chuẩn lao động và bảo vệ quyền của người lao động trong môi trường toàn cầu hóa.
Báo cáo chỉ ra rằng chính quyền Đài Loan đã dành ra khoảng 3 tỷ đô la Mỹ để xây dựng dự án Terminal 3 của sân bay Taoyuan, và công trình đã được khởi công vào năm 2021. Tuy nhiên, nhanh chóng sau đó, hàng ngàn người lao động di cư đến từ Việt Nam và Thái Lan đã phát hiện họ phải đối mặt với rủi ro lao động cưỡng bức đa dạng. Những người lao động di cư được phỏng vấn bày tỏ rằng họ tới làm việc chịu chấp nhận “nợ nần rất cao” do phải trả phí tuyển dụng trước và họ bức xúc với các đại lý tuyển dụng ở Đài Loan mà có những hành vi đầy dối trá cũng như áp dụng các biện pháp trừng phạt.
“Nhà tôi nghèo đến mức không còn một đồng nào, tôi vay mượn tiền từ các ngân hàng và nơi khác,” người lao động nhập cư từ Việt Nam nói thẳng, họ đã phải trả hơn 5000 USD tiền phí tuyển dụng khi ở sân bay, số tiền này tương đương với thu nhập tối thiểu của Việt Nam trong 2 năm rưỡi. Bên cạnh đó, họ còn phải trả thêm 500 USD tiền “phí chống trốn”, thường được gọi là “tiền đặt cọc”, số tiền này sẽ được hoàn trả sau 6 tháng làm việc. Báo cáo cho biết, có 12 người lao động được phỏng vấn cho biết họ đã vay từ 4300 đến 5700 USD để trả phí tuyển dụng.
Theo các nguồn tin cho biết, đa số đồng nghiệp quen biết đều phải vay mượn tiền để chi trả phí tuyển dụng. Báo cáo chỉ ra rằng, những lao động mang nợ nần nặng nề do chi phí ứng tuyển có thể cảm thấy mình bị buộc phải chấp nhận điều kiện làm việc khó khăn, bởi vì món nợ này buộc họ phải tiếp tục công việc. Đây được coi là hình thức “nô lệ nợ” (debt bondage), và là một trong những dấu hiệu của lao động cưỡng bức theo quan điểm của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO).
Theo báo cáo của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc (OHCHR), Tomoya Obokata, người đặc trách vấn đề nô lệ hiện đại, đã chỉ rõ rằng người lao động nước ngoài tại Đài Loan sẽ ít dễ bị tổn thương trong môi trường áp bức nếu họ không mắc nợ vì tìm việc và xin visa. Ông nhấn mạnh việc “quan tâm đến nguy cơ cao mà người lao động di cư có thể trở thành nô lệ nợ hoặc lao động bắt buộc là vô cùng quan trọng.”
Tin từ Việt Nam – Theo thông báo từ Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc (OHCHR), ông Tomoya Obokata, chuyên gia về chống lại hình thức nô lệ hiện đại, đã mạnh mẽ bày tỏ quan điểm khi ông nói rằng người lao động nước ngoài tại Đài Loan sẽ ít bị yếu thế trong tình huống bị ép buộc nếu như họ không chịu các khoản nợ do tìm kiếm công việc và xin thị thực. Ông Obokata cảnh báo rằng việc nhận thức đầy đủ về nguy cơ họ có thể trở thành nạn nhân của nô lệ nợ hay lao động cưỡng bức là cực kỳ cần thiết và quan trọng.
Báo cáo cho biết, những lao động nhập cư làm việc cho dự án nhà ga hàng không hàng tháng phải trả một khoản phí dịch vụ cho người môi giới, tương đương với việc họ phải dành ra thu nhập của hai tháng trong hợp đồng ba năm. Một số lao động nhập cư đã lên tiếng chỉ trích khoản phí này là “không hợp lý” và cho biết thêm rằng các môi giới còn thu các khoản phí dưới nhiều danh nghĩa khác. Một người lao động nhập cư được phỏng vấn tiết lộ rằng bản thân mình khi ốm đau cần đi khám bệnh đã phải trả cho người môi giới 450 Đài Tệ mới (khoảng 14 đô la Mỹ), số tiền này tương đương với tiền lương của một ngày nghỉ ốm.
Lao động nhập cư được phỏng vấn đã đề cập đến việc họ phải chịu đựng các hình thức đe dọa, quấy rối và áp đặt mức phạt tiền từ 3000 đến 5000 Đài tệ mới (khoảng 92 đến 155 đô la Mỹ), hoặc thậm chí bị buộc phải nghỉ việc không lương trong vài ngày. Ngoài ra, nếu lao động nhập cư đánh nhau hoặc nhận được 3 lá thư cảnh cáo, họ sẽ bị trục xuất khỏi đất nước. Một số lao động nhập cư thừa nhận rằng quản lý của họ liên tục đe doạ sẽ trục xuất họ khỏi nước sở tại. Tất cả lao động nhập cư được phỏng vấn đều tin rằng họ được công ty Samsung tuyển dụng, bởi người đại diện tuyển dụng họ nói rằng họ đang tuyển người cho Samsung.
Báo cáo cho biết, những lao động nhập cư này đều mặc đồng phục có logo của Samsung nhưng trên thẻ cư trú của họ chỉ có tiếng Trung, viết rằng nhà tuyển dụng là công ty kỹ thuật Rongmin. Tuy nhiên, theo các lao động nhập cư được phỏng vấn, phiếu lương và bảng chấm công cung cấp không có tên của nhà tuyển dụng. Báo cáo chỉ ra rằng, thông qua việc kiểm tra các nền tảng mạng xã hội như Facebook cũng như trang web của công ty tuyển dụng, quảng cáo tuyển dụng ở Việt Nam đã rõ ràng sử dụng tên của Samsung.
Bản tin tiếng Việt:
Báo cáo gần đây cho biết, các lao động nhập cư mặc đồng phục có in logo Samsung, tuy nhiên, trên giấy tờ cư trú của họ chỉ ghi bằng tiếng Trung, với tên nhà tuyển dụng là Công ty Kỹ thuật Rongmin. Tuy vậy, theo lời của những lao động này trong cuộc phỏng vấn, bảng lương và sổ chấm công do họ cung cấp lại không hề có ghi tên của nhà tuyển dụng. Báo cáo cũng chỉ ra rằng, đã có thể xác minh được qua cả Facebook lẫn trang web của công ty tuyển dụng rằng các quảng cáo tuyển dụng lao động tại Việt Nam thực sự đưa ra tên tuổi của Samsung.
Một số người lao động di cư đã thừa nhận rằng họ đã nghĩ đến việc chuyển đổi công việc, nhưng được thông báo chỉ có hai lựa chọn: ở lại hoặc bị trục xuất. “Rất nhiều” đồng nghiệp của họ đã chọn bỏ trốn khỏi công trường xây dựng nhà ga hàng không. Báo cáo chỉ ra rằng, hiện tại có khoảng 1500 người lao động di cư vẫn đang làm việc trong dự án nhà ga hàng không. Theo báo cáo của chính phủ vào năm 2023, có hơn 500 người lao động di cư đã bỏ trốn, trở thành lao động không có giấy tờ hợp lệ, sự việc này đã thu hút sự chú ý của truyền thông địa phương ở Đài Loan.
Công ty Sân bay Đào Viên của Đài Loan là công ty nhà nước hoàn toàn thuộc sở hữu của Bộ Giao thông Vận tải quốc gia. Theo các báo cáo, Bộ Giao thông Vận tải không cam kết giải quyết vấn đề nguy cơ lao động cưỡng bức trong dự án xây dựng nhà ga, chỉ trả lời rằng “nhà thầu đã chỉ ra trong thư rằng không có lao động nô lệ trong dự án này” và nói rằng họ “không phát hiện hoặc nhận được thông báo từ cơ quan quản lý lao động trung ương hoặc địa phương về rủi ro lao động cưỡng bức hoặc dấu hiệu của lao động cưỡng bức khác”.
Dưới vai trò là một phóng viên địa phương tại Việt Nam, tôi sẽ viết lại tin tức như sau:
Công ty Cảng hàng không Đào Viên ở Đài Loan, hoàn toàn thuộc sở hữu của Bộ Giao thông Vận tải Đài Loan, gần đây đã có báo cáo cho biết Bộ không cam kết giải quyết các rủi ro liên quan đến lao động cưỡng bức trong dự án xây dựng nhà ga mới. Hồi đáp từ phía Bộ chỉ đưa ra lời khẳng định rằng “nhà thầu đã khẳng định trong bức thư của họ rằng không có tình trạng lao động nô lệ trong dự án” và bày tỏ rằng họ “không tìm thấy hoặc được thông báo từ bất kỳ cơ quan nào về rủi ro lao động cưỡng bức hoặc bất kỳ dấu hiệu nào của lao động cưỡng bức”.
Báo cáo đã đề cập rằng, Bộ Lao Động của chúng ta trước đây khi nói về tình hình lao động nước ngoài, đã từng nói rằng nhiều người lao động từ nước ngoài có khả năng kinh tế hạn chế ở quốc gia gốc của họ, do đó nhiều người trước khi đến Đài Loan đã vay nợ và mang theo khoản nợ nần. Nếu hạn mức vay quá lớn, họ rất dễ trở thành nô lệ nợ nần. Báo cáo nêu rằng, Bộ Giao thông Vận tải sẽ không yêu cầu Bộ Lao Động tiến hành điều tra, bởi điều đó không thuộc phạm vi trách nhiệm của dự án xây dựng nhà ga và Công ty Cảng hàng không Táo Viện, khuyến nghị hỏi Bộ Lao Động hoặc Sở Lao Động thành phố Đào Viên.
Dưới vai trò một phóng viên địa phương tại Việt Nam, đây là cách viết lại tin tức này bằng tiếng Việt:
Báo cáo gần đây đã chỉ ra rằng, Bộ Lao Động của nước chúng ta đã từng đề cập đến tình hình của người lao động nước ngoài, và đã nói rằng nhiều người lao động ở quốc gia của họ gặp hạn chế về mặt kinh tế. Do đó, trước khi đến Đài Loan làm việc, họ đã phải vay mượn và mang theo nợ nần. Và nếu số tiền vay quá lớn, họ có thể sẽ trở thành “nô lệ nợ nần”. Báo cáo cũng nói rằng, Bộ Giao thông Vận tải không yêu cầu Bộ Lao Động tiến hành điều tra vì vấn đề này không thuộc về trách nhiệm của dự án xây dựng nhà ga và Công ty Cảng hàng không Táo Viện. Họ đề xuất rằng nên liên hệ với Bộ Lao Động hoặc Sở Lao Động thành phố Đào Viên để biết thêm thông tin.
Samsung C&T, tên gọi của Samsung Engineering & Construction, đã bác bỏ mọi hành động liên quan đến việc tuyển dụng lao động nhập cư và khẳng định rằng công ty không nhận được bất kỳ thông tin chi tiết nào về việc tuyển dụng từ các nhà tuyển dụng hoặc lao động trước đó. Báo cáo không chỉ ra liệu cuộc khảo sát hàng năm của Samsung đã phát hiện ra rủi ro về quyền con người trong dự án xây dựng nhà ga không, và công ty cũng không thừa nhận việc lao động nhập cư phải đối mặt với rủi ro lao động cưỡng bức. Tuy nhiên, Samsung đã tuyên bố rằng họ “sẽ nỗ lực hết mình để cải thiện quy trình tuyển dụng và quản lý lao động nhập cư, đồng thời giám sát việc cải thiện tình hình.”
Bài báo viết rằng “không ai giải thích tại sao chi phí tuyển dụng lao động di cư không được bao gồm trong ngân sách 3 tỷ đô la Mỹ”, và vấn đề nô lệ nợ cực kỳ cao là một vấn đề rõ ràng mà chính phủ Đài Loan đã không nhìn thấy trong nhiều năm. Báo cáo cho biết, khi lao động di cư bị thu phí quá cao ở nước ngoài, pháp luật của Đài Loan không thể can thiệp, nhưng bên trong Đài Loan cũng không có cơ chế đầy đủ để giám sát rủi ro lao động cưỡng bức mà hơn 700.000 lao động di cư phải đối mặt, phần lớn họ được tuyển dụng bởi các công ty tư nhân.
Dưới vai trò một phóng viên địa phương tại Việt Nam, hãy viết lại thông tin trên bằng tiếng Việt:
Các báo cáo thông tin “không có lời giải thích nào tại sao chi phí tuyển dụng lao động nhập cư lại không được tính vào trong kế hoạch ngân sách 3 tỷ đô la.” Phí tuyển dụng quá cao dẫn đến tình trạng nợ nần của người lao động là vấn đề tồn tại lâu năm mà chính phủ Đài Loan đã lơ là không để ý đến. Báo cáo còn nói rằng, khi người lao động bị thu phí quá cao từ nước ngoài, luật pháp Đài Loan không có khả năng can thiệp, nhưng Đài Loan bên trong cũng không có hệ thống giám sát hiệu quả các rủi ro về lao động cưỡng bức mà hơn 700,000 lao động di cư đang phải đối mặt, đa số trong số họ được thuê mướn qua các công ty tư nhân.
Ủy ban Hướng dẫn Cựu Binh Quân Đội Quốc Gia của chúng ta sở hữu cổ phần trong Công ty Kỹ Thuật Vinh Danh và đã thừa nhận việc tuyển dụng lao động di cư thông qua công ty trung gian. Dù vậy, họ nhấn mạnh rằng ”chỉ sở hững một tỷ lệ nhỏ cổ phần (dưới 10%), không có đủ quyền để đề xuất quản lý hay tham gia vào việc ra quyết định”. Phía bên cạnh đó, theo thông tin được đưa tin, Quỹ Tiền Tệ Hưu Trí Chính Phủ Na Uy (Government Pension Fund of Norway) đang sở hữu cổ phần trong các tập đoàn lớn như Tập Đoàn Khổng Lồ, Samsung C&T và Kỹ Thuật Á Xướng.
Là một phóng viên địa phương tại Việt Nam, hãy viết lại tin tức trên bằng tiếng Việt:
Ủy ban Hỗ trợ Hưu trí Cựu Binh Của Quân Đội Quốc Gia của chúng ta đã được biết là sở hữu cổ phần trong Công ty Công trình Các Binh Sĩ Danh dự, đồng thời cũng đã xác nhận về việc tuyển dụng nhân công di cư thông qua đối tác trung gian. Tuy nhiên, họ đã khẳng định rằng chỉ sở hữu một phần nhỏ cổ phần (ít hơn 10%), vì thế không có đủ thẩm quyền để góp ý trong việc quản lý hoặc tham gia vào các quyết định. Bên cạnh đó, theo các bản tin đã nói, Quỹ Tiền tệ Hưu bổng Chính phủ Na Uy (Government Pension Fund of Norway) hiện đang nắm giữ cổ phần ở những công ty lớn như Tập đoàn Khổng Lồ, Samsung C&T và Công ty Kỹ thuật Á Siêu.
Tập đoàn Giant là công ty mẹ của Giant, trong khi Asiastar Engineering là công ty mẹ của Veteran Engineering. Báo cáo cho biết quỹ bổ sung của chính phủ Na Uy đã đầu tư tại Đài Loan trong nhiều thập kỷ, hiện nay đã đầu tư hơn 20 tỷ đô la Mỹ, vượt qua tổng số tiền đầu tư tại Thái Lan, Malaysia, Việt Nam, Indonesia, Philippines, Singapore, Hồng Kong, Bangladesh và Sri Lanka.
Dưới tư cách một phóng viên địa phương tại Việt Nam, hãy viết lại tin tức trên bằng tiếng Việt:
“Tập đoàn khổng lồ Giant được biết đến là công ty chủ quản của Giant, còn Asiastar Engineering lại là công ty đứng đầu của Veteran Engineering. Theo những báo cáo mới nhất, quỹ cung cấp của chính phủ Na Uy đã có những khoản đầu tư kéo dài hàng chục năm tại Đài Loan, với tổng số tiền lên đến hơn 20 tỷ đô la Mỹ. Số tiền này đã vượt qua tổng lượng vốn mà Na Uy đầu tư tại các quốc gia khác như Thái Lan, Malaysia, Việt Nam, Indonesia, Philippines, Singapore, Hồng Kong, Bangladesh và Sri Lanka. Mức độ đầu tư này cho thấy sự quan tâm lớn và cam kết mạnh mẽ của Na Uy đối với nền kinh tế Đài Loan, đồng thời cũng phản ánh vị thế quan trọng của Đài Loan trong chiến lược đầu tư toàn cầu của quốc gia này.”
Quỹ hỗ trợ của Chính phủ Na Uy trả lời Bancen rằng họ sẽ điều tra rủi ro lao động cưỡng bức liên quan đến các nhà đầu tư của mình, nhấn mạnh rằng họ đồng ý với nguyên tắc ‘Người sử dụng lao động trả tiền’ (Employer Pays Principle). Họ cũng khẳng định rằng nếu có việc thu phí tuyển dụng không công bằng từ người lao động, những khoản phí đó nên được hoàn trả. Quỹ hỗ trợ AP2 của Thụy Điển, một trong những nhà đầu tư lớn, cũng có chính sách không khoan nhượng với lao động cưỡng bức, tuy nhiên họ không yêu cầu các bên thu hút đầu tư thực hiện chính sách tuyển dụng không mất phí.
Dưới vai trò một phóng viên tại Việt Nam, dưới đây là phiên bản tin tức được viết lại bằng tiếng Việt:
Quỹ Hỗ Trợ của Na Uy Cam Kết Điều Tra Rủi Ro Lao Động Cưỡng Bức
Chính phủ Na Uy đã xác nhận sẽ tiến hành điều tra về các vấn đề rủi ro lao động cưỡng bức có liên quan đến các công ty mà họ đầu tư vào. Họ nhấn mạnh sự đồng thuận với nguyên tắc “Người sử dụng lao động trả tiền” (Employer Pays Principle), theo đó, bất kỳ phí tuyển dụng nào không công bằng được thu từ người lao động đều phải được hoàn trả.
Mặt khác, Quỹ Hỗ Trợ AP2 của Thụy Điển, được biết đến là một trong những nhà đầu tư tập đoàn lớn, cũng đã thể hiện quan điểm không chấp nhận lao động cưỡng bức trong bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, quỹ này chưa đặt ra yêu cầu cụ thể về việc thực hiện chính sách tuyển dụng không mất phí cho các đối tác đầu tư.
Những cam kết và biện pháp này thể hiện sự nỗ lực của các quỹ đầu tư lớn trong việc chống lại vấn nạn lao động cưỡng bức và đảm bảo môi trường làm việc công bằng cho người lao động trên toàn thế giới.
Một báo cáo gần đây chỉ ra rằng quỹ đầu tư AP2 không bao gồm vấn đề nhân quyền và lao động trong quá trình kiểm định trước khi đầu tư. Tuy nhiên, quỹ này đang giải quyết những rủi ro liên quan thông qua việc liên tục tương tác với các bên nhận đầu tư. Báo cáo cũng đề cập đến “Sáng kiến Thương mại Thế kỷ 21 giữa Đài Loan và Hoa Kỳ” mà hai bên đã thảo luận trong năm 2023, trong đó nhấn mạnh cam kết “loại bỏ việc thu phí tuyển dụng và các phí liên quan từ người lao động nhập cư”. Điều này cho thấy ngành công nghiệp lao động có ảnh hưởng đang theo dõi sự thay đổi khi mỗi năm họ thu khoảng 480 triệu USD từ việc thu phí dịch vụ từ người lao động nhập cư.
“Đài Loan là một trong số ít các nơi trên thế giới vẫn giữ quy định hợp pháp cho phép các công ty môi giới lao động thu phí dịch vụ từ người lao động di cư, trong khi hầu hết các quốc gia khác đã đặt chi phí này vào hạng mục chi tiêu nguồn nhân lực của người sử dụng lao động. Báo cáo cho biết, Hiệp hội Quốc gia các Nhà cung cấp Dịch vụ Việc làm của Trung Hoa Dân Quốc (NESA) đã không phản hồi các câu hỏi đặt ra và theo nhiều nguồn tin, các công ty môi giới lao động ở Đài Loan còn có thể nhận được hoa hồng từ các khoản phí mà người lao động đã trả trước cho công ty tuyển dụng nước ngoài, ước tính hàng triệu đô la Mỹ mỗi năm.”
Báo cáo cho biết, nếu sản phẩm liên quan đến lao động cưỡng bức, như Hoa Kỳ sẽ cấm nhập khẩu, và Liên minh Châu Âu cũng đã thông qua luật lệ tương tự vào năm 2024, dự kiến sẽ được thực hiện trong toàn bộ Liên minh Châu Âu trong vòng 3 năm tới. Tuy nhiên, loại luật lệ này không thể buộc các công ty xây dựng hoặc nhà thầu của chính phủ Đài Loan phải chịu trách nhiệm, trừ khi họ xuất khẩu hàng hóa đến Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu giống như các tập đoàn lớn khác. Báo cáo cuối cùng nhấn mạnh: “Lần sau khi bạn đi qua Sân bay Quốc tế Đào Viên, hãy nhớ đến những người lao động mà chính phủ Đài Loan đã chi tiền để xây dựng.”
Bản tin địa phương từ Việt Nam:
Bản tin cho biết, việc nhập khẩu sản phẩm có liên quan đến lao động cưỡng bức sẽ bị cấm tại Hoa Kỳ, và một luật lệ tương tự cũng đã được Liên minh Châu Âu thông qua cho năm 2024, với kế hoạch áp dụng trong khắp Liên minh Châu Âu trong ba năm tới. Tuy nhiên, những quy định này có lẽ không thể áp dụng cho các công ty xây dựng hoặc các nhà thầu của chính phủ Đài Loan, trừ khi họ cũng tham gia xuất khẩu mặt hàng đến Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu như các công ty lớn khác. Bản tin kết luận với lời nhắc nhở: “Khi bạn lần sau ghé qua Sân bay Quốc tế Đào Viên, hãy nhớ đến những công nhân đã được chính phủ Đài Loan thuê để xây dựng nơi này.”
Phỏng Vấn Đặc Biệt: Nhà hoạt động đến từ Kenya chỉ trích Qatar vì bất chấp quyền của lao động nhập cư và bị bắt giam. Người ủng hộ quyền lao động nhập cư: Loại bỏ trung gian là cách duy nhất đạo đức. Thỏa thuận hợp tác lao động giữa Đài Loan và Ấn Độ gây ra những vấn đề liên quan đến tấn công tình dục, phân biệt chủng tộc và tin giả từ Trung Quốc. Tạp chí Diplomat: “Made in Taiwan” = Sản xuất bằng lao động cưỡng bức? Lao động nhập cư ở Đài Loan hàng năm bị các nhà môi giới lấy đi ít nhất hàng chục tỷ đồng.
Đặc Phái Viên Tại Việt Nam, bản tin này được viết lại như sau:
Phỏng Vấn Đặc Biệt: Các nhà hoạt động nhân quyền ở Kenya đã lên tiếng chỉ trích chính quyền Qatar vì không tôn trọng các quyền của người lao động nhập cư và do đó đã bị giam giữ. Họ cho rằng, việc loại bỏ các nhà môi giới là cách duy nhất để đảm bảo sự công bằng và đạo đức trong việc tuyển dụng lao động nhập cư. Một thỏa thuận hợp tác lao động giữa Đài Loan và Ấn Độ đã vướng vào những vấn đề nghiêm trọng như tấn công tình dục, phân biệt chủng tộc và cả những thông tin không chính xác được lan truyền bởi Trung Quốc. Tạp chí Diplomat còn đặt ra câu hỏi liệu những sản phẩm “Made in Taiwan” có thực sự được sản xuất bởi lao động cưỡng bức hay không? Và theo những gì được báo cáo, mỗi năm có ít nhất hàng chục tỷ đồng tổng số tiền bị các nhà môi giới lao động ở Đài Loan cắt xén từ những người lao động nhập cư.